Tên di sản : Đền Hạ

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 2520/ QĐ - UBND

Giới thiệu

Đền Hạ xã Thiệu Dương toạ lạc hướng Tây nhìn xuống sông Mã lưng tựa núi Long (núi rồng), trong một không gian yên tĩnh, giữa làng xóm trù phú, với nhiều dòng họ đến sinh cơ lập nghiệp ở đây từ lâu đời. Các công trình của đền gồm:

Cổng đền: Mới được xây dựng lại theo kiểu trụ biểu (tứ trụ). Hai trụ chính được đặt tượng hai con nghê, phần lồng đèn của hai trụ này được trang trí tứ quý, trụ vuông, đế cổ bòng. Hai trụ bên cũng được làm tương tự như hai trụ chính, đỉnh đầu trụ là hai con hổ châu, nhưng kích thước thấp nhỏ hơn hai trụ chính.

Sân đền: Sân dưới đến rộng 13m dài 15,3m; trước đây trong khuôn viên có tượng bằng đá gồm voi đá, ngựa đá nhưng hiện nay không còn (năm 1990, UBND xã Thiệu Dương có chủ trương chuyển voi về chùa Hưng Phúc - gần đền thờ Dương Đình Nghệ). Hiện nay, tại Đền thờ Dương Đình Nghệ vẫn còn lại đôi voi đá là của Đền Hạ xưa kia. Từ sân dưới qua bậc cửu trùng (9 bậc) mỗi bậc có chiều cao 18cm rộng 25cm, hết 9 bậc là đến sân trên của đền; sân được lát gạch đất nung kích thước 20cm x 20cm, sân dài 13m, rộng 6m.

Nhà tiền đường: là một công trình kiến trúc gỗ gồm 3 gian hai chái có niên đại trùng tu lần cuối cùng gần đây nhất ghi ở thượng lương được phiên âm:

Khải Định thất niên tam nguyệt nhị thập trùng tu thượng trụ đại cát vượng. Tức là: Trùng tu ngày 26 tháng 3 năm Khải Định thứ 7 (1922).

Kiến trúc của nhà Tiền đường: gồm 3 gian 4 vì tường hồi bít đốc (theo các cụ cho biết ngày xưa nhà tiền đường không có cửa mà để trống, khoảng năm 1990 mới xây tường long cốt và làm cửa bảo vệ như hiện nay).

Nhà Tiền đường gồm có ba cửa ở ba gian: gian thứ nhất cửa rộng 0,8m, cao 1,9m; gian giữa rộng 1,2m, cao 1,9m; gian bên rộng 0,8m cao 1,9m. Hai bên cửa giữa được vẽ trang trí 2 tượng hộ pháp.

Nhà Tiền đường có kích thước như sau: Từ tường đốc đến tim cột vì thứ nhất là 30cm; tim vì thứ nhất đến tim vì thứ 2 là 2,9m; tim vì 2 đến tim vì 3 là 3,1m; tim vì 3 đến tim vì 4 là 2,95m; tim vì 4 đến tương đốc là 0,2m; tường đốc dây 22cm. Chiều rộng hiên 1,4m; tường long cốt dầy 22cm; Từ tường đốc đến cột quân trước 15cm; từ cột quân đến cột cái 1,3m; cột cái trước đến cột cái sau 1,85m; cột cái sau đến cột quân sau 1,18m; cột quân sau đến tường hậu 0,9m (vì 2 và vì 3 trốn cột cái trước, nên phần từ cột quần trước đến cột cái sau 2,98m).

Cấu trúc của hai vì kèo bên (vì 1 và vì 4), hệ thống vì kèo ở đây được cấu trúc theo kiểu thức kèo suốt kẻ trước bẩy sau. Tính từ ngoài vào có 4 hàng chân cột hai cột cái ở giữa và hai cột quân trước sau.

Cấu trúc của vì kèo từ ngoài vào kẻ trước ăn mộng vào cột quân, phía trên là xà lòng ăn mộng giữa đầu cột quân và thân cột cái, nối hai thân cột cái và đầu cột quân sau. Trên xà lòng là câu đầu, đè lên hai cột cái là hệ thống kèo làm nhiệm vụ đỡ hoành mái. Phía trên cùng là thượng lương.

Cấu trúc hai vì kèo giữa (vì 2 và vì 3): Hệ thống vì kèo ở đây có cấu trúc giống vì 1 và vì 4, chỉ khác nhau ở chỗ trốn cột cái trước, cột cái được thay thế bằng trụ (ta thường gọi là trốn cột cái); liên kết cột quân trước với cột cái sau bằng quá giang; liên kết đầu trụ và cột cái sau bằng câu đầu. Với kết cấu này thì vì kèo ở đây có 3 hàng chân cột nhằm mục ��ích tăng diện tích sử dụng

Toàn bộ hoành, rui, mè đều bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi.

Nhà trung đường: Liền kề nhà Tiền đường là đến Trung đường. Về niên đại nhà Trung đường, cho đến nay chưa xác định được là xây dựng vào thời gian nào. Tuy nhiên, theo kết cấu kiến trúc vật liệu xây dựng, đối chiếu với các công trình khác có kiểu dáng tương tự, cùng với nguồn tài liệu các cụ truyền lại thì Trung đường có niên đại xây dựng khoảng nửa cuối thế kỷ XIX. Nhà Trung đường được nối với nhà Tiền đường bằng hệ thống máng đá; máng được đỡ bằng 4 cột đá có kích thước bằng nhau (cột đá cao 1,96m, vuông 16cm; bát đá cao 17cm hình bầu dục rộng trên 28cm dưới 19cm; đế cột là chân tảng, tảng vuông 18cm), máng đá hình phễu miệng 30cm; đáy 24cm; dày 5cm gồm có 5 máng đá có gờ nối với nhau làm nhiệm vụ hứng nước mái nhà chảy ra hai bên.

Vật liệu kết cấu nhà Trung đường được làm bằng gạch và vôi vữa truyền thống cuốn vòm có chiều dài 7,45m, rộng 3,26m; tường đốc mỗi bên dây 25cm; vòm trần cao 3,5m, được chia làm 3 gian được ngăn cách bởi cột gạch vuông 27cm; cao 2,1m, bát vuông 32cm.

Nhà Hậu cung: Nhà Hậu cung ngày xưa được cuốn vòm như nhà Trung đường, nhưng năm 1972, máy bay của giặc Mỹ ném bom làm sập hiện nay chỉ còn lại dấu vết nền móng cũ.

Hệ thống thờ tự ở Đền Hạ:

Theo các cụ cao tuổi trong làng truyền lại ngày xưa khi đến được xây dựng thì Hậu cung thờ thần chủ là Đông Thượng Trấn Hiển linh ứng đại vương, Trung đường chỉ duy nhất một bàn thờ hội đồng; nhà Tiền đường chỉ là nơi sắp đồ lễ. Từ khi Hậu cung bị sập tất cả các bàn thờ đều được dịch tiến lên phía nhà Tiền đường như hiện nay.

Nhà Tiền đường: Bàn thờ ở chính giữa nhà Tiền đường là bàn thờ hộ đồng các quan.

Nhà Trung đường: Gồm có ba bàn thờ ở ba gian; gian giữa thờ Đông Thượng trấn hiển ứng đại vương trên bàn thờ này còn phối thờ hai vị thần là: Đô Bác Trịnh phủ quân tôn thần và Quý Minh tôn thần). Vào năm 1980 dân làng có phối thờ thêm ở Trung đường bên tả là bàn thờ Chúa thượng ngàn và bên hữu là Đức Thánh Trần.

Hiện vật trong di tích:

Hiện vật gỗ cổ.

Mâm bồng 2 cái.

Khay mịch 1 cái.

Gương thờ 1 cái.

Kiếm 2 cái.

Hiện vật đá cũ:

Tảng kê cột 8 cái

Tảng kê 4 cái

Hiện vật gỗ mới:

Bài vị 1 cái

Long ngai 1 cái

Mâm bồng 1 cái.

Chân đèn 1 cái

Đài nước 1 cái

Ống hương 3 cái.

Hiện vật sứ mới:

Bát hương 5 cái.

Hiện vật đồng mới:

Đài nước 3 cái.

Lư hương 1 cái.

Нạс 2 con.

Chân đèn 2 cái.

Bát hương 3 cái.

Chuông nhỏ 1 cái.

Đền Hạ

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật